Nguyễn Cảnh Hoan (阮景節 1521-1576) là tướng nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam, có tài liệu chép là Nguyễn Cảnh Mô, Trịnh Mô, Nguyễn Hoan tước Tấn Quận công, giữ chức Binh bộ Thượng thư, hàm Thái phó về sau được tấn phong Quốc công.
Văn bia "Hùng Vương từ khảo" là một bằng chứng quan trọng khẳng định vai trò của vị danh thần Quảng Ngãi trong việc tu sửa đền Hùng. Đặc biệt, tại Di tích lịch sử Đền Hùng hiện nay có 11 tấm bia chữ Hán ghi lại việc tu sửa tại di tích nhưng chỉ có duy nhất "Hùng Vương từ khảo" là văn bia ghi nhận sự kiện Tổng đốc Tam Tuyên Nguyễn Bá Nghi trùng tu đền Thượng.
Nguyễn Năng Quốc, hiệu là Vi Khanh, sinh năm 1870, tại làng Thượng Tần, xã Thượng Tần, phủ Thái Ninh cũ, nay là thị trấn Châu Giang, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình. Ông làm Tổng đốc Thái Bình vào cuối những năm 1920. Sau khi hưu trí, ông về trú tại ấp Thái Hà, huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông, nay thuộc quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
Nguyễn Sơn là một trong những người Việt Nam được phong quân hàm cấp thiếu tướng đợt đầu tiên vào năm 1948. Ông cũng được Trung Quốc phong quân hàm tướng vào năm 1955 nên ông được gọi là Lưỡng quốc tướng quân. Là vị tướng rất giỏi, văn võ song toàn. Ông được Nhà nước Việt Nam truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh.
Chiếu theo quyết định 211 EX/30 của UNESCO vào năm 2021, hồ sơ yêu cầu của Việt Nam về việc kỷ niệm 200 năm ngày sinh của thi sĩ Nguyễn Đình Chiểu đã được UNESCO chấp nhận và cho phép việc kỷ niệm đó được gắn liền với danh hiệu UNESCO.
Cụ Nguyễn Thái Bạt, sinh vào thời triều vua Lê Hiến Tông, niên hiệu Cảnh Thống thứ 6, tại Xã Bình Lãng – Tổng Ngọc Trục – Huyện Cẩm Giàng – Phủ Thượng Hồng – Trấn Hải Dương, nay là: Thôn Bình Phiên - Xã Ngọc Liên - Huyện Cẩm Giàng - Tỉnh Hải Dương. Cụ sinh trưởng trong gia đình nho sĩ lâu đời, dòng dõi thi thư trâm anh thế phiệt.
Nguyễn Thiện Thuật, thủ lĩnh của khởi nghĩa Bãi Sậy, quê ở làng Xuân Đào, xã Xuân Dục, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. Ông là con cả của một gia đình nhà nho nghèo, là hậu duệ đời thứ 30 của Nguyễn Trãi. Cha ông là tú tài Nguyễn Tuy làm nghề dạy học, các em trai ông là Nguyễn Thiện Dương và Nguyễn Thiện Kế sau này cũng đều tham gia khởi nghĩa Bãi Sậy.
Nguyễn Thượng Hiền sinh năm Mậu Thìn (1868), người làng Liên Bạt, huyện Sơn Lãng, nay là huyện Ứng Hòa, TP Hà Nội. Ông sinh trưởng trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng, có cụ thân sinh là Nguyễn Thượng Phiên, đỗ Hoàng Giáp dưới triều vua Tự Đức năm thứ 18 (1865). Nguyễn Thượng Phiên sau này làm tới chức Thượng thư Bộ Công dưới triều vua Thành Thái.
Đầu thế kỷ XX, nhờ tiếp thu vốn Nho học và cả Tây học, trong giới văn nghệ sĩ không hiếm những người tài hoa trong nhiều lĩnh vực. Nhưng để chọn một nghệ sĩ đa tài tiêu biểu nhất, tin chắc nhiều người sẽ chọn nhà văn, nhạc sĩ Nguyễn Đình Thi (1924-2003).
Nguyễn Xí (chữ Hán: 阮熾; 1397-1465 ) hay Lê Xí, là một vị tướng, nhà chính trị, công thần khai quốc nhà Hậu Lê và là đại thần trải qua 4 đời vua thời Hậu Lê được mệnh danh là thiên tài quân sự trong lịch sử Việt Nam.
Nguyễn Bá Tĩnh - Tuệ Tĩnh Thiền sư (慧靜禪師, 1330-?), thường được gọi tắt là Tuệ Tĩnh hoặc Huệ Tĩnh (慧靜), người làng Nghĩa Phú, tổng Văn Thái, huyện Cẩm Giàng, phủ Thượng Hồng (nay là tỉnh Hải Dương) được phong là ông tổ ngành dược Việt Nam và là người mở đầu cho nền y dược cổ truyền Việt Nam. Các bộ sách Nam Dược thần hiệu và Hồng Nghĩa giác tư y thư của ông không chỉ có ý nghĩa trong lịch sử y học mà cả trong lịch sử văn học Việt Nam.
(honguyenvietnam.org) - Nguyễn Ánh là vị vua có công khi thống nhất Việt Nam sau gần 300 năm chia cắt và chiến tranh kể từ thời Nam Bắc triều tới hết thời Tây Sơn (1533-1802). Sau đây là một số lời nhận xét của các sử gia, nhà nghiên cứu về ông:
Nguyễn Cảnh Chân Thủy tổ dòng họ Nguyễn Cảnh ở Nghệ An, sinh năm Ất Mùi (1355) quê ở làng Ngọc Sơn, huyện Nam Đường, Hoan Châu nay thuộc Thanh Chương tỉnh Nghệ An.
Thời Trần, có hai nhân vật cùng họ cùng tên là Nguyễn Khoái và cùng được sử cũ trân trọng ghi tên. Một người là danh tướng, một người là danh thần. Tuy cùng âm là Khoái nhưng mặt chữ Hán của hai tên gọi này lại hoàn toàn khác nhau. Chữ Khoái (蒯) là tên của danh tướng vốn tên một loài cỏ (cỏ này có thể lấy sợi để dệt). Chữ Khoái (袂-?) là tên của danh thần (người sinh sau danh tướng Nguyễn Khoái chừng nửa thế kỉ) có nghĩa là vui vẻ, sắc sảo, mau chóng... Trang viết nhỏ này chỉ nói về danh tướng Nguyễn Khoái mà thôi.
Nguyễn Tri Phương tên thật là Nguyễn Văn Chương, tên tự là Hàm Trinh, tên hiệu là Đường Xuyên. Ông sinh ngày 09/09/1800, nhằm ngày 21 tháng 7 năm Canh Thân, trong một gia đình có truyền thống yêu nước, hiếu học tại tổng Chánh Lộc, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên. Vua Tự Đức đã cải tên Nguyễn Văn Chương thành Nguyễn Tri Phương lấy ý từ câu “Dõng thả Tri Phương” tức là vừa dũng cảm, vừa mưu lược.
Danh tướng Nguyễn Chích (1382–1448) Quê ở Làng Vạn Lộc, xã Đông Ninh, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Là công thần khai quốc nhà Hậu Lê, người tham gia khởi nghĩa Lam Sơn.
Dưới đây là toàn văn bản dự thảo, được trình lên Đại Hội Hội Đồng Họ Nguyễn Việt Nam phê duyệt và gửi lên các cấp chức năng của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thông qua.
( DOWNLOAD BẢN GỐC TẠI ĐÂY )