Hạnh nguyện Tổ sư
Những năm 1940, khi nước ta còn trong thời kỳ chiến tranh giữa hai nước Pháp - Nhật, tình cảnh đất nước bị chia cắt nhiều nơi, Phật giáo nước nhà cũng bị phân hóa, một phần những ngôi già lam được coi như nơi để phục vụ nhu cầu tín ngưỡng dân gian trong các làng quê. Người tu thì được xem như “thầy cúng” với mục đích phục vụ ma chay, bói toán.
Dần dần giáo lý Phật giáo tại nước nhà bị mai một, khi đó Tổ sư Minh Đăng Quang ấp ủ tâm nguyện: “Nối truyền Thích Ca chánh pháp”, xây dựng lại hình ảnh của người tu phải đúng theo Phật, noi gương hạnh của hiền thánh, thực hành con đường trung đạo, Tứ y pháp, thân đắp mảnh y vàng, tay ôm bình bát đất để du hóa khắp muôn nơi, thuyết giáo độ đời.
Với hạnh nguyện ấy, Ngài dần kiến tạo ra một hình ảnh Phật giáo đậm chất Việt và trở về bản thể vốn có của nó là tinh nguyên và thuần khiết lý thanh nhàn giải thoát. Từ đó đạo Phật Khất sĩ Việt Nam ra đời dưới sự hướng dẫn của Tổ sư Minh Đăng Quang, được gọi là Sư trưởng.
Con đường hoằng hóa
Nhưng trong con đường mở đạo của Tổ sư phải trải qua những thử thách, khó khăn từ trong tư tưởng, bối cảnh đất nước, nhận thức cá nhân, và nhất là những người không thích đạo Phật luôn tìm cách chống phá. Có những khi dư luận lại xôn xao trước hình ảnh của Tăng đoàn do Tổ sư hướng dẫn nào là: Họ là thầy tu chăng? Họ đi xin để sống? Họ có học hay dốt? Họ có phải là đoàn thể tôn giáo, chính trị gì chăng?
Trước làn sóng tốt xấu của dư luận, nhưng Tăng đoàn Khất sĩ cứ mỗi buổi sáng đều thực hành hạnh trì bình khất thực, dần rồi trở thành thói quen, mọi người biết cúng dường, sớt bát, và cung kính dâng lên những phẩm thực khi thấy Tăng đoàn đi ngang qua nhà mình. Từ đó, giáo pháp Khất sĩ như một bông hoa thơm, tỏa ngát mùi hương, người người mến mộ, xin được thọ giáo quy y.
Bước chân Tổ sư đi đến đâu là đạo tràng tịnh xá được mọc lên đến đó, nhất là các tỉnh miền Tây và Đông Nam Bộ.
Sau 10 năm hoằng hóa đạo mầu, năm 1954 Tổ sư Minh Đăng Quang đã từ giã chúng đệ tử và nhắn gởi đôi điều: “Các con hãy ở lại mà mở mang mối đạo, giáo hóa chúng sanh, đền ơn chư Phật. Ấy là các con theo Thầy, làm vui lòng Thầy nơi xa vắng. Rồi một ngày kia Thầy sẽ trở về”.
Tiếp nối hạnh nguyện
Dẫu xã hội ngày càng phát triển nên việc gìn giữ hình ảnh Tăng đoàn và cách hành đạo phải có sự thay đổi để phù hợp, phương tiện khác đi, nhưng trong lòng mỗi người con Khất sĩ dù ở đâu cũng vẫn ấp ủ in nguyên lời giáo huấn và hạnh nguyện vàng son của Tổ:
”KHẤT SĨ là học trò khó đi xin ăn để tu học. Khất sĩ là cái sống của chơn lý vũ trụ, mà tất cả chúng sanh đều là học trò cả thảy.
Có hai thứ xin:
1. Xin vật chất (vạn vật) để nuôi thân.
2. Xin tinh thần (các pháp) để nuôi trí.
Cho nên từ ngàn xưa, kẻ đã giác ngộ chơn lý ấy, như Phật Tiên hiền thánh, thảy đều bát cơm bầu nước, bay khắp non sông, trôi vòng thế giới, để đến với danh từ Khất sĩ, hầu hưởng quả Vô thượng sĩ ngày mai”.
Chơn lý Khất Sĩ.
Đến nay đã 65 năm Tổ sư vắng bóng, hằng năm chư Tăng Ni đều long trọng tổ chức lễ tưởng niệm ngài như một lời tri ân đối với bậc thầy tiếp nối con đường của chư Phật tại quê hương Việt Nam.
Qua đây, để chúng ta phần nào thấy được tinh thần Phật giáo Khất sĩ đã đóng góp một phần không nhỏ trong sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh, giữ gìn mối đạo, giúp cho mọi người sanh khởi lòng tin với chánh pháp, trên con đường tiếp nối hạnh nguyện của Phật Tăng xưa, sống một đời chân phương, bình dị.
Giác Minh Luật
Tác giả bài viết: Giác Minh Luật
Ý kiến bạn đọc
Cũng chính vì sự đa dạng, và gắn liền với nhiều sự đổi thay trong quá trình phát triển dòng họ đó, mà ít nhiều đến bây giờ chúng ta đã phần nào bị thất lạc hoặc mất kết nối với các nhánh họ và những tư liệu lịch sử từ ngàn năm ông cha ta, ông bà ta để lại. Với mục đích xây dựng một kênh...