THÂN THẾ VÀ CÔNG NGHIỆP
Triệu tổ Tĩnh hoàng đế húy Nguyễn Kim (1468 - 1545) được sinh ra trong một Danh gia vọng tộc ở đất Quý hương Gia Miêu ngoại trang, tổng Thượng Bạn, huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa, nay là làng Gia Miêu, xã Hà Long, huyện Hà Trung.
Ông nội của Ngài là Thái bảo Phó quốc công Nguyễn Như Trác. Thân phụ Ngài là Đà giang Kinh lược sứ Thái tể Trừng quốc công Nguyễn Lưu, thân mẫu họ Mai.
Ngài và em trai là Lý Nhân công Nguyễn Tông Thái sinh ra và lớn lên ở quê Gia Miêu, thiếu thời đã nổi tiếng tài kiêm văn võ, được tập ấm vào triều giữ việc binh.
Triều Lê Chiêu Tông (1516 – 1524), Ngài được phong chức Tả vệ Điện tiền tướng quân, tước An Tĩnh hầu, trông coi tỉnh Thanh Hóa.
Năm Đinh Hợi (1527), khi Mạc Đăng Dung tiếm ngôi nhà Lê, Ngài đem thuộc hạ lánh sang nước Ai Lao mưu việc khôi phục, lúc đó Ngài đã 59 tuổi. Ngài chiêu tập những người trung dũng, gửi con nhỏ Nguyễn Hoàng mới 2 tuổi cho em vợ là Nguyễn Ư Kỷ nuôi dạy để mình tiện lo việc lớn.
Năm Kỷ Sửu (1529), Ngài đem quân về Thanh Hóa đánh nhà Mạc, thắng trận liên tiếp.
Năm Canh Dần (1530), quân sĩ bị tổn thất, Ngài phải tạm lui về Ai Lao chỉnh đốn lại binh mã.
Năm Quý Tỵ (1533), Ngài cùng các tướng dò tìm được Lê Ninh 18 tuổi (con của vua Lê Chiêu Tông) lập lên ngôi vua, là vua Lê Trang Tông. Từ đó hào kiệt theo về càng đông. Ngài được vua Lê phong chức Thượng phụ Thái sư Hưng Quốc công Chưởng nội ngoại sự.
Năm Quý Mão (1543), vua Lê tiến quân từ thành Tây Đô, Thanh Hóa ra Bắc, sai người mang chiếu thư sang Ai Lao gọi Ngài về. Vua gia phong Ngài làm Thái tể Đô tướng Tiết chế tướng sĩ chư dinh thủy bộ. Ngài tiến quân đến đâu thắng đến đấy.
Giáp Thìn (1544), Ngài cả phá ngụy tướng Tây Quốc công Nguyễn Kính ở Yên Mô, rồi chia quân trấn giữ những nơi xung yếu. Ngụy Mạc lấn Đông Sơn (Thanh Hóa) bị Ngài đánh tan chém hơn nghìn thủ cấp.
Tháng tư Ất Tỵ (1545), Ngài tiến quân ra Điềm Giang (Hoàng Long, Gia Viễn) đánh tan ngụy tướng Phụng Quốc công Lê Bá Ly. Ngài muốn tiến đánh Đông Đô, nhưng gặp lụt phải quay về đóng dinh ở Yên Mô. Hàng tướng nhà Mạc là Dương Chấp Nhất dâng quả dưa có thuốc độc để hại Ngài.
Ngài mất ngày 20 tháng 5 năm Ất Tỵ (28/6/1545), thọ 78 tuổi.
Được tin Ngài mất, vua Lê vô cùng thương xót, truy tặng Ngài tước Chiêu Huân Tĩnh Công, ban thụy là Trung Hiếu. Linh cữu Ngài được đưa về Bái Trang, huyện Tống Sơn, Thanh Hóa, táng tại núi Thiên Tôn. Khi táng, bất chợt trời nổi sấm chớp dông bão mù mịt, ai cũng sợ hãi bỏ chạy. Lúc trời tạnh trở lại thì đá núi, cỏ cây tươi tốt, không rõ huyệt táng ở nơi nào nữa.
Năm Giáp Ngọ (1594), vua Lê Thế Tông truy tặng Ngài là: Chiêu Huân Phụ Triết Tĩnh Công.
Đời Tiên Vương (Chúa Tiên), Ngài được suy tôn: “Huệ Triết Hiển Hựu Hoành Hưu Tế Thế Vỹ Tích Chiêu Huân Tĩnh Vương”.
Đời Vũ Vương, Ngài được suy tôn: “Di Mưu Thùy Du Khâm Cung Huệ Triết Hiển Hựu Hoành Hưu Tế Thế Vỹ Tích Chiêu Huân Tĩnh Vương”.
Năm Bính Dần (1806), vua Gia Long suy tôn Ngài: “Di Mưu Thùy Du Khâm Cung Huệ Triết Hiển Hựu Hoành Hưu Tế Thế Khải Vận Nhân Thánh Tĩnh Hoàng Đế”. Miếu hiệu là Triệu Tổ.
CÁC NƠI THỜ TỰ:
- Sau khi mất, Ngài được phối thờ cùng với Ông nội là Phó Quốc công Nguyễn Như Trác và Thân phụ là Trừng quốc công Nguyễn Lưu ở nhà thờ họ Nguyễn - Gia Miêu, sau này là Tôn Miếu của dòng họ Nguyễn công tính chính chi Gia Miêu.
- Năm Quý Hợi (1803), vua Gia Long cho dựng Nguyên Miếu gồm ba gian hai chái ở phía Đông núi Thiên Tôn gọi là miếu Triệu Tường để thờ Ngài.
- Năm Giáp Tý (1804), Vua Gia Long cho dựng Triệu Miếu trong Hoàng thành để thờ Ngài.
- Năm Mậu Thìn (!808), vua Gia Long đặt tên Lăng của Ngài là lăng Trường Nguyên. Vì lăng không có dấu tích nên Vua cho xây một nền vuông dưới chân núi, gọi là Phương cơ để làm chỗ bái yết.
- Năm Tân Tỵ (1821), vua Minh Mệnh đổi tên núi Thiên Tôn thành núi Triệu Tường. Năm 1822, vua cho dựng bia ở lăng Trường Nguyên, làm bài minh để ca ngợi công nghiệp của đức Triệu tổ. Bài minh như sau:
“Đất lớn chứa thiêng, sinh ra Triệu Tổ.
Vun đắp cương thường, nêu rạng Thánh Võ.
Nghĩa động quỷ thần, công truyền vũ trụ.
Cõi trần rời bỏ, lăng ở Bái Trang.
Non nước bao bọc, sầm uất tùng xanh.
Khí thiêng nhóm họp, đời đời xương vinh.
Mệnh trời đã giúp, con cháu tinh anh.
Võ công dựng nước, bèn tìm gốc nguồn.
Truy tôn dựng miếu, lăng gọi Trường Nguyên.
Tân Tỵ, Bắc tuần, đến đây dựng lại.
Trông ngắm non sông, nhớ đến gốc cõi.
Khắc chữ vào bia, lưu ức vạn tải.
GIA ĐÌNH
Ngài có 2 phu nhân, sinh 2 con trai và 1 con gái.
1- Triệu tổ Tĩnh hoàng hậu Nguyễn Thị Mai, con gái của Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân, Thự vệ sự Nguyễn Minh Biện quê ở Phạm Xá, Hải Dương. Hoàng hậu là người thuần hậu, đức hạnh vẹn toàn, mất ngày 23 tháng Giêng, tên thụy là “Từ Tín”, được hợp táng với Triệu tổ trên núi Thiên Tôn. Sau, vua Gia Long phối thờ Tổ mẫu trong Triệu miếu ở Phú Xuân và đặt tên lăng ở Gia Miêu là lăng Vĩnh Nguyên.
2 - Thứ thất, phu nhân Đỗ Thị Tín quê Đông Biện, Vĩnh Ninh (nay thuộc Vĩnh Tân, Vĩnh Lộc) Thanh Hóa.
Các con:
1- Nguyễn Thị Ngọc Bảo.
2- Nguyễn Uông.
3- Nguyễn Hoàng.
(Bài viết có sử dụng tư liệu của NGUYỄN PHÚC TỘC THẾ PHẢ 1995 - Nhà nghiên cứu Huế Nguyễn Phước Vĩnh Khánh )