Ông sinh ngày 2 tháng 6 năm 1929, tại làng Kiểng Phước, tổng Hòa Lạc Hạ, tỉnh Gò Công (nay thuộc xã Kiểng Phước, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang). Thân phụ của ông vốn làm nghề thợ bạc, thân mẫu ông là một thợ may. Hai người ly dị nhau khi ông mới lên 3, về sau đều tái giá và có con riêng. Từ nhỏ, ông đã phải sống với ông bà nội.
Từ nhỏ ông đã có chí, học giỏi nhưng nhà nghèo. Vì vậy, ông phải làm việc từ lúc mới 12 tuổi để kiếm thêm tiền đi học. Ông sửa xe đạp, quét trường học, phụ đánh máy và nhiều việc lặt vặt khác để có tiền trang trải cho việc học. Sau mấy năm làm việc để gom đủ số tiền mua được một vé tàu hạng ba đi Pháp, ông rời Việt Nam để thực hiện giấc mơ du học ở Paris.
Tại Paris, ông được một người quen cho ở trọ để tiếp tục học lấy bằng Tú tài. Trong thời gian này, để sinh kế, ông làm và làm bồi bàn tại tiệm ăn La Table du Madarins. Tại đây, ông làm quen với một sinh viên Việt Nam khác cũng đang làm bồi bàn tại đây là Nguyễn Ngọc Huy, người sẽ cùng sát cánh hoạt động chính trị với ông sau này.
Sau khi tốt nghiệp Tú tài, ông theo học ngành Luật và Chính trị học, Đại học Sorbonne. Để có tiền theo học, ông phải làm nhiều nghề, kể cả khuân vác, giặt ủi.[1] Do lao lực quá độ, có thời gian ông làm phu khuân vác đêm tại Nhà Lồng Paris hay Les Halles, đã bị nhiễm bệnh lao, phải nằm bệnh viện một thời gian.
Với ý chí và nỗ lực, ông tốt nghiệp Cử nhân Luật năm 1956, rồi Tiến sĩ Luật và Chính trị học năm 1960. Năm 1962 ông trở thành một trong số rất ít giáo sư Việt Nam có bằng Thạc sĩ Công pháp Quốc tế.[2] Đầu năm 1963, ông quyết định về nước làm việc. Trước khi về nước, ông đã hứa hôn với một nữ sinh viên có tên là Lê Thị Thu Vân, người sau này trở thành bạn đời của ông.
Sau khi về nước, ông dạy môn luật hiến pháp và khoa học chính trị tại Trường Đại học Luật Sài Gòn và Học viện Quốc gia Hành chánh. Bấy giờ, chính quyền Đệ nhất Cộng hòa của tổng thống Ngô Đình Diệm đang ra tay đàn áp các lực lượng chống đối, bắt giam các chính khách đối lập như Nhóm Caravelle, Nguyễn Tường Tam... Để thể hiện quan điểm, ông đã cho đăng tải bài viết "Đảng phái và Đối lập chính trị" gây được nhiều sự chú ý trên chính trường. Cũng từ đây, ông bắt đầu có những hoạt động chính trị nhằm tiến tới việc "thành lập một chính đảng quốc gia" trên con đường xây dựng "một nước Việt Nam thống nhất, dân chủ với sự ủng hộ rộng rãi của người dân"[3].
Sau cuộc đảo chính ngày 1 tháng 11 năm 1963, ông được chính quyền mới bổ nhiệm làm Viện trưởng Học viện Quốc gia Hành chánh thời Đệ nhị Cộng hòa. Rất nhiều sinh viên do ông đào tạo về sau nắm giữ những chức vụ quan trọng trong chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Đầu năm 1964, ông thành hôn với bà Thu Vân, người sinh viên đã rời bỏ nước Pháp để về thành hôn với ông, dù ông "chỉ là một giáo sư nghèo" hơn bà đến mười tuổi[4].
Cuối năm 1968, được sự cổ vũ của người bạn cũ Nguyễn Ngọc Huy, bấy giờ là một trong những lãnh đạo của đảng Tân Đại Việt, ông thành lập Phong trào Quốc gia cấp tiến, một tổ chức chính trị mang nhãn hiệu đối lập với chính phủ của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, với thành viên đa số là học trò của ông.[5]
HÌNH ẢNH VỤ ĐẶT MÌN ÁM SÁT GIÁO SƯ BÔNG
Vào ngày 10 tháng 11 năm 1971, tổ trinh sát vũ trang Ban An ninh T4 bao gồm Vũ Quang Hùng và Lê Văn Châu[7] tổ chức ám sát ông tại ngã tư Cao Thắng - Phan Thanh Giản, bằng cách ném cái cặp chứa 4kg chất nổ C4 được liên kết với ba trái lựu đạn xuống gầm xe của ông đang ngừng tại đèn đỏ ngã tư. Giáo sư Bông thiệt mạng cùng các cận vệ của ông.[8] Lúc đó ông mới 42 tuổi.
Khi ông qua đời, lúc đó ông có hai trai và một gái. Sau 1975, vợ ông tái giá với Lacy Wright, một nhà ngoại giao Mỹ, và lấy tên mới là Jackie Bông Wright.
Tác giả bài viết: honguyenvietnam.org
Ý kiến bạn đọc
Dưới đây là toàn văn bản dự thảo, được trình lên Đại Hội Hội Đồng Họ Nguyễn Việt Nam phê duyệt và gửi lên các cấp chức năng của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thông qua. ( DOWNLOAD BẢN GỐC TẠI ĐÂY )