Ca khúc về La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp - Ca khúc họ Nguyễn

Thứ tư - 22/08/2012 19:45
La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp (1723-1804) Bậc sỹ phu chí khí thanh cao không bán linh hồn mình cho bè phái chính trị gian tà. Bậc sỹ phu đích thực ấy chỉ cống hiến sức mình cho bậc minh quân, người không chịu luồn cúi trước dã tâm của giặc Tàu. Bậc sỹ phu ngày nay nên học cái gương ấy để không thẹn với núi sông tiên tổ.
La son phu tử Nguyễn Thiếp
La son phu tử Nguyễn Thiếp

Tác Giả: Tâm Thơ, Ngô Nguyễn Trần
Hòa Âm: Nhạc sĩ Lê Huỳnh
Trình Bày: Cao Duy

Miền đất sinh thành của Nguyễn Thiếp vốn nổi tiếng là quê hương nhiều bậc trí giả của đất nước, ngay giáp đời ông, ông nội, ông ngoạI, chú và cậu hai bên đều học giỏi, đỗ cao, nổi tiếng thơ văn một vùng. Ông sinh ngày 25 tháng tám năm Quý Mão (1723) tại quê nhà: làng Mật, xã Nguyệt Áo, tổng Lai Thạch, huyện La Sơn (nay là huyện Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh. Thuở nhỏ, ông mang tên là Minh, sau đi thi, phải kiêng huý tên vua, nên đổi sang là Thiếp; ông có rất nhiều tên hiệu, tên tự, hoặc tên người đời xưng tặng như : Hạnh Am, Điền Án, Khai Xuyên, Cuồng Ân, Lạp Phong, cư sĩ, Bùi Phong Cư Sĩ, hầu Lục Niên, Lục Niên Tiên Sinh, La Giang Phu Tử, Lam Hồng dị nhân, song nổi tiếng hơn cả là tên hiệu La Sơn phu tử.

Cả một vùng sông Lam núi Hồng ( Nghệ Tĩnh), ông thuộc như lòng bàn tay. Ấy là vì năm 21 tuổi, ông đậu Hương giảng, ông đi dạy học ở nhiều phủ huyện trong vùng, lúc rãnh lại ngao du ngắm cảnh và kết bạn. Chưa kể thuở nhỏ, nhà nghèo, ông còn được cha mẹ dẫn ra tỉnh Thái Nguyên, ở cùng chú ông là Nguyễn Hành làm quan tại đó, để có nơi chốn học hành chu đáo. Ông cũng có dịp về Thăng Long, kết bạn cùng nhiều sĩ tử các trấn xa gần; ông cũng xuống tận quê hương Vĩnh Bảo (nay thuộc Hải Phòng) của Tuyết Giang phu tử để tưởng niệm và có dịp thẩm đượm ý chí của nhà học giả Nguyễn Bỉnh Khiêm ở miền đất này. Người đời cho rằng, sự hiểu biết sâu sắc của Nguyễn Thiếp về địa lý, cũng như việc ông rất thông hiểu thời thế, dự báo những diễn biến lớn của thời cuộc, có lẽ một phần cũng do đã đọc nhiều sách và bỏ công đi thăm quê hương của Trạng Trình đất Vĩnh Bảo. Nguyễn Thiếp là người đồng thời với Lê Quý Đôn (1726-1784), nhưng cũng chịu đọc sách Vân đài ngoại ngữ và Kiến văn tiểu lục và rất tâm đắc với nhà bác học tác giả những tập sách đồ sộ kiến thức này.

Điều chẳng may xảy ra một lần khi ông đang trên đường từ Thái Nguyên về Thăng Long thì bị ốm nặng, phải nằm lại bơ vơ ở dọc đường Đông Anh, rơi vào cảnh “thập tử nhất sinh”. May nhờ gặp người tốt cưu mang cho ông thoát chết, ông vẫn phải chịu di chứng nặng nề về tâm thần, mà ông gọi là “bệnh cuồng”. Vượt qua khó khăn về tật bệnh và nghèo khó, với nghị lực phi thường, ông nuôi chí xa lánh thế tục để tập trung ý chí vào việc học hành thật sâu để mở rộng sự hiểu biết của mình, truyền thụ kiến thức và đạo lý cho người đời. Mười năm, ông dạy học ở nhiều nơi, nhưng quan trọng hơn, ông đến đâu cũng được người già cùng trẻ nhỏ kính trọng nghe theo lời phân giải và cách cư xử của ông.

Tiếng tăm về tài đức của ông khiến triều đình phải đặc cách mời ông ra làm chức Huấn đạo phủ An Đô (tức huyện Đô Lương ngày nay), tỉnh Nghệ An, lúc ông 34 tuổi. Lúc này đang giữa đời Lê Duy Diên làm vua, hiệu là Hiển Tông, với bí quyết là sống nhàn hạ không quan tâm đến chính sự cùng mọi việc khác bên ngoài cái ghế mình ngồi, với lời tâm sự nổi tiếng : “Trẫm rũ áo, chắp tay, nhờ nghiệp đã có sẵn, chẳng cần gì phải đọc sách, chỉ lo xem hát múa, ăn chơi để tiêu khiển cho hết đời mà thôi”. Trong khi đó, chúa Trịnh Doanh được vua Lê gia phong là Thượng sư Thượng phụ anh Đoan Văn Trị Võ công Minh vương, tha hồ làm mưa làm gió, dùng lính Thanh Nghệ đốt hết sách vở thơ văn trong dân, thu nhặt hết chuông khánh ở các chùa để đúc binh khí, xây dựng cung đình mới bên Gia Lâm để định thiên đô sang bên bờ kia sông Cái. Tuy có thi thố chút ít tài năng ở một vị trí nhỏ bé trong chốn hẻo lánh, ông sớm chán nản việc làm quan, vì thiếu kỉ cương xã hội không ai dòm ngó chỉnh đốn, dân chúng không biết kêu vào đâu tệ nạn quan lại các cấp tham nhũng và áp chế dân lành. Được ba năm, ông xin từ quan, về ở ẩn. Nhưng triều đình lại bổ ông đi làm tri phủ Thanh Giang (nay là huyện Thanh Chương, Nghệ An).

Vài năm sau, ông lại xin từ quan, trở về nghề dạy học ở núi Thiên Nhẫn. Đây là quả núi lớn nằm giữa hai huyện Nam Đàn (Nghệ An) và Hương Sơn (Hà Tĩnh), ngọn cao nhất là 254 mét; ở độ cao 178 mét, có thành Lục Niên do Đinh Liệt xây năm 1424, theo lệnh của Lê Lợi. Ông cho xây bên cạnh tường đá của thành một ngôi nhà gạch một gian (đến nay vẫn còn ngôi nhà này, cùng tường đá của thành Lục Niên). Tại ngôi nhà ở ẩn này, ông lại dạy học với nỗi niềm mà ông tâm đắc: “Nhân sinh thiên hạ gian. Sở vinh tại bất nhục” (nghĩa là : Người ta sống trong trời đất ; cái vinh, chính là chỗ không bị nhục). Uy vọng của ông lan toả khắp vùng, vang tới tận kinh kì. Nhiều vị lão đất Thăng Long viết thư mời ông ra Bắc để bàn thảo nhiều việc hệ trọng cần đến sự tinh thông cổ kim. Vài năm sau, chúa Trịnh Sâm gửi tờ truyền triệu ông ra kinh : “Đại đức chiếu đến Nguyễn Thiếp là người có học hành, nay cho mời gọi về kinh...” Khi ấy, Sâm đã giết thái tử Lê Duy Vĩ, đánh tan Lê Duy Mật, lại đem quân vượt sông Gianh đánh chúa Nguyễn, thân chinh vào chiếm được Thuận Hoá; trong phủ, Sâm gạt con cả 18 tuổi, lập con nhỏ mới 3 tuổi (con của quí phi Đặng Thị Huệ) lên làm thế tử. Nguyễn Thiếp ra Thăng Long, khuyên ngăn chúa Trịnh Sâm đừng nên thoán đoạt quyền bính của vua Lê, làm cho sĩ phu kinh kì phải kinh ngạc mà kính phục phong độ của ông. Xong việc ông trở lại núi Thiên Nhẫn dạy học và nghiên cứu học thuật.

Trước và sau khi Trịnh Sâm chết, dân chúng đói khổ vì mất mùa, lụt lội, trộm cướp nổi lên như rươi, kinh đô Thăng Long rối loạn trong nạn kiêu binh, cảnh đầu rơi máu chảy diễn ra hàng ngày. Nguyễn Huệ, 32 tuổi, cầm đầu quân Tây Sơn, từ Nam ra Bắc đập tan hết quyền lực và uy thế của chúa Nguyễn, chúa Trịnh. Trong khi giới sĩ phu hai miền không ít người bàng hoàng, Nguyễn Thiếp sớm nhận thấy triển vọng mới của thời cuộc, tuy ông không khỏi tiếc rẻ lúc này mình đã quá sáu mươi tuổi. Ba lần ra Bắc (năm 1786, năm 1788, và năm 1789), Nguyễn Huệ không chỉ quét hết thù trong giặc ngoài, đem lại yên ổn cho dân chúng, mở một lối thoát cho tương lai đất nước, mà còn bày tỏ được tấm lòng trân trọng đối với những con người trung thực và có tài ba trong kẻ sĩ Bắc Hà. Họ nhìn nhận Nguyễn Huệ như một tâm hồn tri kỉ,có thể đặt lòng tin và gửi trí tuệ cùng sự nghiệp của mình.

Nguyễn Thiếp được Nguyễn Huệ biết đến không chỉ về đạo đức mẫu mực có ảnh hưởng sâu rộng mà còn là bậc thầy về nhìn xa thấy rộng về thời cuộc đất nước. Ba lần, Nguyễn Huệ cho người mang lễ vật và thư mời ông, với lời lẽ hết sức khiêm nhường; và có lẽ Nguyễn Huệ là nhà cầm quyền đầu tiên và duy nhất tôn xưng Nguyễn Thiếp lên bậc PHU TỬ. Thư Nguyễn Huệ viết : “ Nay Phu tử nghĩ đến thiên hạ với sinh dân, vụt dậy ra đi, để cho quả đức có thầy mà thờ, cho đời nay có người mà cậy. Như thế, mới ngõ hầu khỏi phụ ý trời sinh ra người giỏi”.

Lần thứ nhất, ông chối từ. Lần thứ hai, ông gặp mặt, vui vẻ luận bàn nhưng vẫn xin về ẩn. Lần thứ ba, Nguyễn Thiếp đón đường vua Quang Trung đem quân ra Bắc đánh 250.000 quân của Tôn Sĩ Nghị; ông nói một lời chắc nịch: “Bây giờ, trong nước trống không, lòng người tan rã. Quân Thanh ở xa tới đây, không biết tình hình quân ta yếu mạnh, không hiểu thế nên đánh, nên giữ ra sao. Chúa công ra đi chuyến này, không quá mười ngày giặc Thanh sẽ tan!” . Sau chiến thắng rực rỡ Tết Kỉ Dậu 1789, Nguyễn Huệ viết thư cảm ơn Nguyễn Thiếp: “Người xưa bảo rằng : Một lời nói mà dấy nổi cơ đồ. Lời tiên sinh quả có thế thật!”.

Quang Trung cử Nguyễn Thiếp làm Viện trưởng Viện Sùng chính, lo việc đào tạo sĩ tử và chuyển sách chữ Hán sang chữ Nôm. Trước đó, khi lên ngôi Hoàng đế, Quang Trung đã viết chiếu ngày 3 tháng chín năm Mậu Thân (1788) cho Nguyễn Thiếp, bày tỏ sự đồng tình với kiến nghị của ông về việc nên chọn vùng núi đất Dũng Quyết, tỉnh Nghệ An, làm nơi xây dựng kinh đô mới : “Thực là chỗ đất đẹp để đóng đô vậy”. Cũng trong chiếu này, Quang Trung giao cho trấn phủ Nghệ An là Nguyễn Văn Thuận hãy cùng La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp lo bắt tay vào xây dựng gấp vùng đất trên thành Phượng Hoàng Trung đô. Sau khi đại phá quân Thanh, Quang Trung càng thôi thúc ý muốn từ Phú Xuân ra Nghệ An, theo đúng ý kiến của Nguyễn Thiếp. Tiếc thay, giữa chừng, Quang Trung bất ngờ lâm bệnh nặng và qua đời. Sau đó, Nguyễn Thiếp cũng xin cáo lui về quê vì lúc này ông đã vào tuổi bảy mươi.

Ngày 25 tháng Chạp năm Quí Hợi (1804), Nguyễn Thiếp qua đời, thọ 81 tuổi. Ông có chín người con, năm trai, bốn gái. Ông để lại bộ sách thơ văn: Lạp Phong văn cảo, Hạnh Am thi cảo và La Sơn thi tập ; ngoài ra, về thơ Nôm, con cháu và học trò ông còn truyền tụng lại một số bài. Và đây là bài Qua Luỹ Sơn, chừng mực nào nói lên tâm thức của Phu Tử đất La Sơn :

Đã trót lên đèo phải xuống đèo
Tay không mình tưởng đã cheo leo.
Thương thay! Thiên hạ người gồng gánh,
Tháng lụt, ngày thâu, chỉ những chèo.

(Mai Thanh Hải)

Tác giả bài viết: honguyenvietnam.org

Nội dung thuộc bản quyền của © Tạp chí điện tử Họ Nguyễn Việt Nam
Chú ý: Việc đăng lại bài viết trên ở website hoặc các phương tiện truyền thông khác mà không ghi rõ nguồn http://honguyenvietnam.org là vi phạm bản quyền
-------------------------------------------------
Tài khoản nhận tài trợ đóng góp cho các hoạt động thiện nguyện, hoạt động xây dựng phả hệ, dịch phả sử và kết nối thông tin các chi tộc:
Số tài khoản: 0907097567 - Ngân hàng MB Bank - Chủ tài khoản: Ts Nguyễn Hữu Thi ( Người sáng lập và đại diện điều hành honguyenvietnam.org )
( Xin vui lòng ghi rỏ nội dung ck:  tài trợ quỹ Tấm Lòng Vàng Honguyenvietnam.org )

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Thống kê
  • Đang truy cập17
  • Hôm nay13,135
  • Tháng hiện tại211,186
  • Tổng lượt truy cập11,097,823
Dang Ky Thanh Vien Họ Nguyễn Việt Nam
ĐĂNG KÝ THÀNH VIÊN
 
Group Facebook Họ Nguyễn VN
Mail Sever
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây