Ông là vị dũng tướng duy nhất của triều Nguyễn được người dân thủ đô Phnôm Pênh lập đền thờ phụng suốt hơn 300 năm qua, một minh chứng cho uy đức và lòng nhân ái vượt xa biên giới quốc gia.
Cuộc đời và sự nghiệp lừng lẫy
Nguyễn Hữu Cảnh (1650-1700), tự Kính Phủ, xuất thân trong một gia tộc võ tướng lừng lẫy tại tỉnh Quảng Bình ngày nay. Thừa hưởng tài năng quân sự từ cha là Chiêu Vũ Hầu Nguyễn Hữu Dật, ông sớm bộc lộ tư chất thông minh, am tường binh pháp và nhanh chóng trở thành một danh tướng kiệt xuất dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu.
Sách "Đại Nam liệt truyện tiền biên" ghi lại, ông không chỉ là một nhà quân sự tài ba với nhiều chiến công hiển hách trong việc bảo vệ biên cương, mà còn là một nhà chính trị có tầm nhìn, luôn đặt lợi ích và đời sống của người dân lên hàng đầu.
Hành trình mở cõi phương nam và chính sách an dân:
Vào cuối thế kỷ 17, với cương vị Chưởng cơ, Nguyễn Hữu Cảnh vâng mệnh chúa Nguyễn tiến vào kinh lược vùng đất phương Nam. Nhận thấy tiềm năng to lớn của vùng đất trù phú nhưng còn hoang sơ, ông đã đệ trình một kế sách mang tính chiến lược: khuyến khích và tổ chức cho người dân từ vùng Ngũ Quảng di cư vào Nam để khai hoang, lập nghiệp.
Dưới sự lãnh đạo của ông, hàng vạn người dân đã cùng nhau biến những vùng đất hoang vu thành những làng mạc, thôn ấp trù phú. Ông đã thực hiện nhiều chính sách an dân thiết thực, như dạy người dân ven biển nghề sông nước, người ở vùng cao nguyên học làm lúa nước. Đặc biệt, ông còn đặt tên cho nhiều vùng đất mới bằng chữ “Bình” – lấy từ tên quê hương Quảng Bình của mình – với mong muốn người dân có thể an tâm định cư, xây dựng cuộc sống mới.
Không chỉ chiêu mộ người Việt, Nguyễn Hữu Cảnh còn thực thi chính sách hòa hợp dân tộc rất tiến bộ. Ông vỗ về, thu nhận người Hoa, người Chăm và các tộc người bản địa khác, đưa họ vào sổ bộ của triều đình. Chính sách này đã mang lại cho họ một danh phận chính thức, giúp họ an cư lạc nghiệp và cùng chung tay xây dựng vùng đất mới. Nhờ những công lao to lớn đó, năm 1698, ông đã chính thức sáp nhập vùng đất Biên Hòa, Gia Định vào lãnh thổ Đại Việt, đặt nền móng vững chắc cho sự hình thành của miền Nam Việt Nam ngày nay.
Công đức của Nguyễn Hữu Cảnh không chỉ giới hạn ở việc mở cõi. Khi triều đình Chân Lạp (Campuchia ngày nay) xảy ra biến loạn, dân tình lầm than, ông đã được cử mang quân sang Nam Vang (Phnôm Pênh) để ổn định tình hình.
Bằng uy đức và tài ngoại giao khéo léo, ông đã vãn hồi trật tự mà không cần dùng đến vũ lực, tránh được một cuộc binh đao đổ máu. Hành động này đã khiến vua tôi và người dân Chân Lạp vô cùng kính phục. Để ghi nhớ công ơn của ông, người dân địa phương đã lập đền thờ ông với danh xưng Đương Cảnh Thành Hoàng, và ngôi đền này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.
Nguyễn Hữu Cảnh đột ngột qua đời vào năm 1700 vì bạo bệnh, nhưng di sản và công đức của ông vẫn sống mãi trong tâm thức của người dân. Ông được người dân Nam Bộ trìu mến gọi là “Ông Lớn” và được các đời vua chúa nhà Nguyễn truy phong là Thượng Đẳng Thần, đưa vào thờ tại Thái Miếu.
Sự tôn thờ dành cho ông vượt qua cả ranh giới dân tộc, khi ông là một trong số ít những nhân vật lịch sử được cả người Việt, người Hoa và người Khmer cùng kính trọng. Hàng năm, vào ngày giỗ của ông, các đền thờ trên khắp Nam Bộ lại nghi ngút khói hương, thể hiện lòng biết ơn sâu sắc của các thế hệ đối với vị công thần đã có công mở mang bờ cõi, mang lại cuộc sống ấm no cho phương Nam.
Tác giả bài viết: BBT Họ Nguyễn Việt Nam
Ý kiến bạn đọc
Những tin cũ hơn
Thân gửi Toàn thể cộng đồng Họ Nguyễn Việt Nam. Họ Nguyễn chúng ta tự hào là dòng họ có số lượng dân số lớn nhất Việt Nam hiện nay. Họ Nguyễn cũng là dòng họ có nhiều nguồn dân số phân bổ trên nhiều vùng miền nhất của cả nước. Ở đâu trên mảnh đất...