Nguồn tư liệu chính thống và nghiên cứu hiện có chỉ rõ công trình được khởi lập từ đầu triều Nguyễn, dưới thời vua Gia Long, bắt đầu xây dựng xung quanh năm 1803 với tên gọi ban đầu là Đốc Học Đường; đến thời Minh Mạng, tên gọi và vị thế của cơ sở được củng cố khi triều đình hoàn thiện hệ thống lễ nhạc, giáo dục nhằm đào tạo nhân tài phục vụ công vụ triều đình. Với tư cách là một trung tâm giáo dục chính thức của vương triều, Quốc Tử Giám Huế thực hiện chức năng giống như “đại học quốc gia” của triều đình, đồng thời tích hợp vai trò tín ngưỡng Khổng giáo thông qua hệ thống lễ bái tại Văn Miếu, nơi tôn vinh Văn thánh và các bậc hiền triết.
Vị trí không gian hiện nay của di tích nằm ở góc Đông Nam Hoàng thành Huế, trên đường 23 Tháng 8, phường Phú Xuân, thành phố Huế. Tư liệu lưu trữ và công bố chuyên khảo ghi nhận rằng trường ban đầu được đặt tại một vị trí ven sông Hương, cách kinh thành một khoảng, nhưng sau đó vào năm 1908 triều đình đã di dời và bố trí lại khuôn viên để tương thích hơn với bố cục Hoàng thành và các công trình cung đình khác; vị trí ngày nay là kết quả của quá trình ổn định địa điểm nhằm tạo một quần thể kiến trúc mang tính nghi lễ và giáo dục trong lòng kinh thành. Khu di tích hiện gồm hệ thống cổng, sân, nhà bái, hành lang và các phòng chức năng mang phong cách kiến trúc cung đình triều Nguyễn, kết hợp yếu tố trang trí chữ Hán, bài trí tượng thờ, bia ký và hiện vật liên quan đến hoạt động giáo dục thời phong kiến.
Về giá trị lịch sử văn hóa, Quốc Tử Giám Huế có ý nghĩa kép: một mặt là minh chứng cho chính sách “văn trị” của triều Nguyễn trong việc đưa Khổng giáo và hệ thống khoa cử vào trung tâm quản trị, mặt khác di tích lưu giữ tư liệu vật thể và phi vật thể về phương thức đào tạo, nghi lễ tôn sư tôn học, và mạng lưới quan lại học hàm phục vụ bộ máy nhà nước. Từ góc độ sử học, địa vị của Quốc Tử Giám Huế giúp ta hiểu mối quan hệ giữa quyền lực chính trị và hệ thống văn hóa giáo dục, cách triều đình tuyển lựa, huấn luyện và sử dụng nhân tài trong hơn một thế kỷ. Bản thân di tích nằm trong quần thể Di sản Cố đô Huế được UNESCO ghi danh năm 1993, vì vậy mọi nghiên cứu, trùng tu, khai thác giá trị di tích đều cần tuân thủ tiêu chí quốc tế về bảo tồn di sản văn hóa.
Về hiện trạng và nguồn tài liệu lưu giữ, di tích còn lưu giữ được nhiều dấu vết kiến trúc, kết cấu và những hiện vật liên quan nhưng đồng thời cũng chịu nhiều tổn hại do thời tiết, chiến tranh và biến động lịch sử trong thế kỷ XX. Những báo cáo gần đây cho biết di tích đang ở trạng thái cần được trùng tu, tôn tạo toàn diện; dự án bảo tồn, tôn tạo có quy mô lớn với kinh phí dự kiến hơn 108 tỷ đồng đã được công bố nhằm phục hồi phần lớn hạng mục kiến trúc và nâng cao hệ thống phục vụ khách tham quan, đồng thời bảo đảm các biện pháp bảo quản hiện vật và chống xuống cấp cho kết cấu gỗ, ngói, mảng trang trí. Việc trùng tu này không chỉ là hoạt động xây dựng mà còn là quá trình phục hồi bộ câu chuyện lịch sử và khôi phục tính liên tục văn hóa cho một công trình giáo dục quốc gia của triều Nguyễn.
Từ góc độ nghiên cứu và phương pháp học, việc tiếp cận di tích cần tuân thủ nguyên tắc “nguyên bản khả thi” và “minh chứng đa nguồn”. Những tuyên bố về chức năng, niên đại hay thay đổi không gian của di tích phải dựa trên chứng liệu lưu trữ gồm văn bản triều đình (sắc, chiếu, công văn), ký hiệu bản đồ cũ, tấm ảnh lịch sử, ghi chép khách quan của các sứ thần và nhà truyền giáo hoặc các công trình khảo cứu đã được thẩm định. Khi trình bày thông tin cho công chúng, nên phân biệt rõ đâu là dữ liệu lưu trữ gốc, đâu là phục dựng nghệ thuật, để tránh hòa lẫn giữa phục dựng hiện đại và thực chứng lịch sử. Trong trường hợp Quốc Tử Giám Huế, nhiều chi tiết kiến trúc và sự kiện lịch sử được xác thực qua nguồn triều chính Nguyễn và khảo cứu sau này nhưng một số thông tin lan truyền qua du lịch hoặc nguồn không học thuật có thể phổ biến sai lệch về niên đại hay ý nghĩa một số hạng mục, vì thế cần đối chiếu chuẩn mực trước khi công bố.
Về khuyến nghị bảo tồn và phát huy giá trị, tôi kiến nghị ba hướng chính thức: thứ nhất cần hoàn thiện sổ tay khoa học về hiện trạng di tích bao gồm bản đồ kiến trúc, kết quả phân tích vật liệu, danh mục hiện vật kèm chứng cứ niên đại để làm cơ sở cho mọi can thiệp; thứ hai khi trùng tu phải áp dụng nguyên tắc “bảo tồn tối thiểu can thiệp” và sử dụng phương pháp phục hồi dựa trên tư liệu, song song với biện pháp bảo quản môi trường nhằm giảm độ ẩm và tác động sinh học đến vật liệu gỗ và giấy; thứ ba phát triển chương trình số hóa tư liệu, triển lãm khoa học và giáo dục di sản để đưa di tích vào chuỗi nghiên cứu quốc gia, đồng thời kết nối với mạng lưới Văn Miếu – Quốc Tử Giám trên toàn quốc, phục vụ nghiên cứu gia phả, sử học và giáo dục cộng đồng. Việc kêu gọi nguồn lực tài trợ phải minh bạch, ưu tiên cho công tác bảo tồn và nghiên cứu học thuật, tránh thương mại hóa làm giảm giá trị khoa học của di tích.
Văn Miếu – Quốc Tử Giám triều Nguyễn tại Huế là một di tích có ý nghĩa lịch sử và văn hóa cấp quốc gia và quốc tế. Chúng tôi tổng hợp và muốn chuyển tải thông tin chính xác đến cộng đồng họ Nguyễn Việt Nam và bạn đọc toàn cầu, mỗi thông tin công bố được dựa trên chứng liệu lưu trữ và nghiên cứu khoa học. Việc trùng tu đang được triển khai là cơ hội phục hồi giá trị nguyên gốc của di tích nhưng cũng đặt ra yêu cầu quản trị di sản chuyên nghiệp, minh bạch và liên ngành để bảo đảm di tích được gìn giữ, nghiên cứu và phát huy bền vững cho các thế hệ mai sau.
📑 PHỤ LỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tư liệu gốc triều Nguyễn (chính sử và văn bản lưu trữ)
Đại Nam thực lục – Quốc sử quán triều Nguyễn, nhiều tập, bản dịch của Viện Sử học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ – Quốc sử quán triều Nguyễn, bản dịch của Viện Sử học, Nxb. Khoa học Xã hội.
Đại Nam nhất thống chí – Quốc sử quán triều Nguyễn, bản dịch của Viện Sử học.
Minh Mạng chính yếu – Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, bản dịch hiện lưu tại Thư viện Quốc gia.
Châu bản triều Nguyễn (1802–1945) – Lưu trữ quốc gia I, Hà Nội.
Các văn bản triều đình về giáo dục và khoa cử: chiếu, dụ, sắc phong về việc lập Văn Miếu – Quốc Tử Giám, hiện lưu giữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV – Đà Lạt và Thư viện Huế.
II. Công trình nghiên cứu học thuật
Phan Thuận An, Các di tích Cố đô Huế, Nxb. Thuận Hóa, 2002.
Nguyễn Đắc Xuân, Quốc Tử Giám triều Nguyễn và hệ thống giáo dục Nho học ở Huế, Tạp chí Nghiên cứu Huế, số chuyên đề, 2010.
Nguyễn Phước Tương, Lịch sử giáo dục Việt Nam thời Nguyễn, Nxb. Giáo dục, 1998.
Lê Nguyễn Lưu, Giáo dục Nho học ở Việt Nam, Nxb. Văn hóa Thông tin, 2001.
Tôn Thất Bình, Cố đô Huế và những giá trị di sản, Nxb. Khoa học Xã hội, 2013.
Philippe Langlet, Confucian Education in the Nguyễn Dynasty, Journal of Southeast Asian Studies, 1994.
III. Tài liệu bảo tồn, UNESCO và dự án tu bổ
Hồ sơ khoa học Quần thể Di tích Cố đô Huế – do Việt Nam đệ trình UNESCO, 1993.
Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, Báo cáo hiện trạng Văn Miếu – Quốc Tử Giám và phương án trùng tu 2023–2030.
Bộ Văn hóa – Thể thao – Du lịch, Quy hoạch tổng thể bảo tồn và phát huy giá trị Di tích Cố đô Huế đến 2030.
UNESCO, State of Conservation Reports on Complex of Hue Monuments, 1994–2022.
IV. Nguồn ảnh tư liệu, bản đồ, số hóa
Bản đồ Kinh thành Huế (1833) – Lưu tại Viện Hán Nôm.
Ảnh chụp Văn Miếu – Quốc Tử Giám Huế do người Pháp chụp cuối thế kỷ XIX, hiện lưu trong École française d’Extrême-Orient (EFEO) Archives.
Ảnh chụp, bản vẽ kỹ thuật của kiến trúc Văn Miếu – Quốc Tử Giám (1908, 1930), lưu giữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV.
Nguyễn Văn Huy sưu tập, Di sản tư liệu hình ảnh Huế thời Pháp thuộc, Nxb. Thế Giới, 2015.
👉 Danh mục trên có thể mở rộng khi tiếp cận thêm các nguồn quốc tế, đặc biệt là tài liệu lưu trữ của Pháp (ANOM – Archives nationales d’outre-mer) hoặc Nhật Bản (liên quan đến nghiên cứu Đông Dương đầu thế kỷ XX).
Tác giả bài viết: Hoàng Thi
Ý kiến bạn đọc
Những tin cũ hơn
Thư mời tham gia xây dựng Cổng Thông Tin Điện Tử Họ Nguyễn Việt Nam ************************* Kính gửi : Cộng Đồng Họ Nguyễn Việt Nam. Họ Nguyễn chúng ta là một dòng Họ rộng lớn và rất nhiều chi, nhiều nhánh Họ rộng khắp trên toàn quốc và cả thế giới. Việc thành lập một Cổng Thông...